Tộc họ và ảnh hưởng xã hội Họ người Hoa

Nhiều tên làng ở Trung Quốc có liên hệ với họ người. Ảnh chụp tại Giả Gia Nguyên (賈家源), nghĩa là "ngọn nguồn nhà họ Giả", ở trấn Hồng Cảng, Thông Sơn, tỉnh Hồ Bắc

Xuyên suốt chiều dài lịch sử Trung Hoa, họ người phục vụ cho nhiều chức năng xã hội. Do mối liên hệ với phát triển ban đầu của giới quý tộc tinh hoa, họ người dùng để minh chứng cho sự quyền quý. Các nhà quý tộc thường đối chiếu họ của nhau để tìm hiểu về tổ tiên và từ đó suy ra thứ bậc của nhau trong gia tộc. Các ví dụ ghi chép hoàng tộc có thể tìm thấy trong bộ Sử ký của Tư Mã Thiên, chứa đựng các bản ghi về các dòng hậu sinh của nhiều triều vua, gọi là thế biểu (tiếng Trung: 世表; bính âm: shìbiǎo).

Sau này, suốt thời nhà Hán, các gia đình quyền uy dùng biển biểu này để khoa trương thanh thế và thậm chí đôi lúc là để hợp thức hóa tư cách lãnh đạo chính trị của họ. Tào Phi, người soán ngôi hoàng đế cuối cùng của nhà Hán, cho rằng mình là hậu duệ của Hoàng Đế. Các hoàng đế Trung Hoa đôi khi ban họ của mình (gọi là Quốc tính) cho thường dân để ghi nhận công lao. Khác với nhiều trường hợp ở châu Âu, khi mà một số họ thể hiện rõ ràng tính quý tộc của người sở hữu nó, các hoàng đế Trung Hoa và người trong thân tộc mang những họ thông thường ngoại trừ trường hợp họ không phải sắc tộc Hán. Đây là hệ quả của nền học thuyết chính trị Trung Hoa, cho rằng một người dân thường với Thiên mệnh sẽ trở thành hoàng đế. Sau khi đăng cơ, hoàng đế Trung Hoa vẫn giữ lại họ của mình. Cũng như vậy, nhiều bá tánh cùng họ với vua không có nghĩa họ là hoàng thân quốc thích.

Đời Đường là giai đoạn cuối cùng mà các dòng dõi quý tộc, hầu hết là hậu duệ quý tộc các nước thời tiền Tần, nắm giữ quyền lực đáng kể tập trung trên một khu vực nào đó. Lúc này, việc sử dụng họ là cách để chứng minh uy thế của gia tộc cũng như thể hiện lòng trung thành với các bậc bề trên. Trong giai đoạn này, nhiều phả điệp (giản thể: 谱牒; phồn thể: 譜牒; bính âm: pǔdié) được thực hiện để ghi chép phả hệ của thị tộc cũng như quan hệ hôn nhân giữa một thành viên thị tộc đó với một thị tộc khác. Sách Tân Đường thư do Âu Dương Tu soạn đã thu thập nhiều bộ phả điệp thời này. Để phân biệt sự khác nhau giữa các họ, vào thời nhà Đường người ta còn thêm tên thị tộc vào trước họ một người, ví dụ Lũng Tây Lý thị 隴西李氏, nghĩ là họ Lý thị tộc Lũng Tây. Nguyên đây là tên của các quận, phủ, là những đơn vị hành chính trước thời nhà Đường, rồi theo thời gian cách sử dụng phổ biến này tuyệt tích, và chỉ dành riêng để gọi tên thị tộc. Dòng thứ trong gia đình cũng được phân biệt, như Cổ Tang Phòng 姑臧房, nghĩa là thị tộc Phòng Cổ Tang.

Trong thời nhà Tống, quan hệ thị tộc kết được tổ chức lại, tạo nên các mối quan hệ dòng tộc. Khởi đầu xu thế này là văn hào Tô Thức và phụ thân của ông. Để tranh thủ thế lực và địa vị quan trường, nhiều người dựa vào mối quan hệ thân tộc (cùng họ) để hỗ trợ nhau. Họ xây trường học để giáo dục thế hệ hậu sinh, hỗ trợ đất đai cho các gia đình có điều kiện không tốt trong dòng tộc. Các nhà thờ họ được dựng lên để tôn vinh dòng họ mình. Trong triều đình, quan hệ huyết thống hoàng tộc luôn được chú trọng bởi đây được xem là nền tảng ổn định quốc gia. Suốt thời Nhà Thanh, chính các mối quan hệ dòng tộc này cùng với gia quy của nó, được xem như một dạng chuẩn mực pháp luật nguyên thủy với chức năng bảo an xã hội. Việc thành lập các mối quan hệ ràng buộc trong dòng tộc là tiền đề cho việc hình thành hội sở thương mại của cộng đồng Hoa kiều khi họ di tản đến Đông Nam Á và các khu vực khác trên thế giới. Ở miền Nam Trung Quốc, nhiều thị tộc rơi vào xung đột vũ trang do tranh giành đất đai. Hiển nhiên, người Hoa vẫn luôn giữ truyền thống truy nguyên nguồn gốc của gia tộc mình nhằm tăng uy thế tinh thần. Đa phần những nguồn gốc huyền bí, mặc dù đã được thiết lập bài bản, là hoang đường.

Gia quy, truyền thống hôn nhân gia đình của Hoa khá phức tạp bởi tầm quan trọng của duy trì dòng họ. Ở nhiều nơi, hôn nhân giữa những người cùng họ, cận huyết, bị ngăn cấm. Ở những nơi khác, phong tục này có phần nghiêm khắc hơn khi các thị tộc có họ giống nhau nhưng khác huyết thống cũng ngăn cấm con cháu mình lấy nhau.

Tính đồng nhất và đặc trưng của tộc họ người Hoa đã suy giảm đáng kể kể từ thập niên 1930 bởi sự đi xuống của Nho học và sau này là sự phát triển của Chủ nghĩa Cộng sản ở Trung Hoa Đại lục. Trong giai đoạn Cách mạng Văn hóa, nhiều truyền thống của văn hóa họ tộc bị thủ tiêu bởi chính quyền Trung Quốc qua việc phá hủy các nhà thờ họ và các tộc phả. Hơn thế nữa, sự xâm lấn của văn hóa Tây phương cùng với áp lực của toàn cầu hóa cũng góp phần làm xói mòn văn hóa tộc họ của người Hoa.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Họ người Hoa http://www.nciic.com.cn/yewufanwei-rksu-mfcp2.htm http://english.peopledaily.com.cn/200411/19/eng200... http://blog.sina.com.cn/s/blog_486c0f6701000dsu.ht... http://blog.sina.com.cn/s/blog_5cc7bc89010100lx.ht... http://wuyilaoren.blog.163.com/blog/static/1652270... http://baike.baidu.com/view/33020.html http://sun-bin.blogspot.com/2005/12/chinese-and-ko... http://www.char4u.com/article_info.php?articles_id... http://www.csmonitor.com/1997/0306/030697.home.hom... http://news.eastday.com/c/20070424/u1a2791347.html